Có hay không. Nhưng ít nhất có trong mong đợi của ai đó, tôi
không dám dùng chữ chúng ta, vì biết đâu, bạn không đồng ý.
Đôi khi tôi cũng có những “lời hứa” cho kiếp sau, bởi vì hiện
đời không thể làm được!
Tôi nói năng thường không dễ nghe, đôi lúc mong nói với mẹ
tôi một lời. Nhưng chẳng hề nói. Mẹ tôi mất, lòng tôi ân hận mãi. Lần đầu tiên
mong có kiếp sau, để làm con trở lại và có thể nói lời dễ nghe với mẹ hơn chăng.
Về sau nghe nhiều người hẹn với những người vừa khuất hai chữ
kiếp sau! Tôi dần hiểu ra “kiếp sau” có, vì đó là “nơi chốn” trong tâm tưởng
mong làm được những gì mà những ngày đã qua mình không làm được.
Cái “kiếp sau” đó để
gởi gắm những gì mà ngay đây, cuộc sống quá phức tạp, không thể sắp xếp như ý,
và dù ngày mai hay xa hơn nữa, vẫn không thể làm được. Thôi đành gởi mây bay,
kiếp sau họa mà làm được, chứ ‘kiếp này đành thôi’.
Cuộc sống ngắn ngủi, khi nói hai chữ “kiếp sau” là vô tình
đã chấp nhận kiếp người ngắn ngủi cho những tham vọng của mình! Vì không thể
trường sinh bất tử để giữ mãi kiếp này, nên tiếp tục muốn giữ những gì còn đang
muốn giữ, biết thế nào bây giờ, may còn hai chữ “kiếp sau” để hy vọng!
Bạn có thể tin hay không tin từ ngữ “kiếp sau”? Nhưng có lẽ
bạn tin những từ đồng nghĩa như thế mà bạn không để ý , chẳng hạn như ước muốn tồn tại mãi, giữ
mãi những gì đang yêu mến… đó chính là trong tâm đang viết hai chữ kiếp sau với
một danh từ khác.